Lợi dụng làm nghề photocopy, bị cáo Đặng Thị Mai Hương (sinh năm 1989, trú phường Phước Long, TP. Nha Trang) đã photo bản gốc giấy tờ đất rồi mang đi thế chấp vay tiền, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng. Sau khi mở phiên tòa xét xử, tòa án đã quyết định trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung.
Thế chấp bản sao, chiếm đoạt 11,3 tỷ đồng
Theo cáo trạng, Hương làm nghề photocopy. Do cần tiền tiêu xài nên Hương nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền. Vì vậy, sau khi nhận chuyển nhượng hoặc lập hợp đồng đặt cọc, Hương photo màu các hồ sơ gốc thành nhiều bản, rồi đem thế chấp lấy tiền. Cụ thể, Hương đã photo 2 bộ hồ sơ thửa đất NV23-10; 1 bộ hồ sơ thửa đất NOTT-01; 1 bộ hồ sơ thửa đất NV05-39. Các thửa đất này đều ở Khu đô thị mới Phước Long, phường Phước Long, Nha Trang.
Quang cảnh phiên tòa. |
Ngày 19-9-2019, thông qua ông T.C.P, Hương thế chấp 1 bộ hồ sơ photo thửa NV23-10 cho bà T. để vay 1,8 tỷ đồng. Ông P. viết giấy mượn tiền và Hương xác nhận trên giấy đã đưa hồ sơ cho ông P. để đưa cho bà T. Trước đó, Hương đã nhờ ông P. vay bà T. lần lượt 600 triệu đồng và 1,05 tỷ đồng. Đến tháng 5-2020, do Hương không trả lãi, bà T. yêu cầu ông P. và Hương tiếp tục viết giấy xác nhận nợ. Ông P. đã viết mượn 3,45 tỷ đồng dưới phần nội dung mượn 1,8 tỷ đồng; Hương cũng xác nhận mượn 3,45 tỷ đồng. Ông P. và bà T. không biết hồ sơ Hương đưa là bản photo.
Từ năm 2019 đến 2020, Hương còn nhiều lần vay tiền của bà N.T.B.L. Cụ thể, Hương thế chấp hồ sơ photo thửa NOTT-01, vay 6 tỷ đồng; 2 lần thế chấp bộ hồ sơ photo thửa NV23-10, vay tổng cộng 2 tỷ đồng; thế chấp hồ sơ photo và hợp đồng đặt cọc thửa NV05-39 trước đó ký nhưng không thực hiện, vay 1,5 tỷ đồng. Tất cả các lần vay tiền, Hương đều có giấy cam kết vay, xác nhận để lại hồ sơ thửa đất làm tin.
Cơ quan chức năng xác định, các bộ hợp đồng chuyển nhượng 3 thửa đất nói trên có hình dấu tròn đỏ đều được tạo ra bằng phương pháp in màu hoặc in phun màu, in laser màu, in màu điện tử. Chữ viết, chữ ký trên các tài liệu cũng được tạo ra bằng các phương pháp in như trên. Tổng cộng, Hương đã thế chấp hồ sơ giả chiếm đoạt 11,3 tỷ đồng.
Đối với tố cáo của bà L. về việc Hương đưa bà đến gặp bà N.T.V để bà V. đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả đứng tên V. và vay bà 1 tỷ đồng, cơ quan chức năng xác định đây là tài liệu giả. Do Hương và V. không thừa nhận, không có căn cứ chứng minh nên cơ quan chức năng không xem xét trách nhiệm hình sự đối với bà V. Còn ông P. chỉ giới thiệu cho Hương vay tiền, không biết hồ sơ thửa đất NV23-10 là giả nên không xem xét trách nhiệm hình sự.
Yêu cầu điều tra bổ sung
Tuần qua, Tòa án nhân dân tỉnh xét xử bị cáo Hương về 2 tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Tại phiên tòa, bị cáo Hương khai đã dùng máy photocopy photo màu 3 bộ hồ sơ thửa NV23-10, NOTT-01, NV05-39 để lưu trữ lại khi cần giao dịch. Nhưng kết luận giám định thể hiện, một số tài liệu thuộc các bộ hồ sơ trên được tạo ra bằng các phương pháp in khác nhau trên cùng một tài liệu; một số nội dung khác cũng chưa được làm rõ. Ngoài ra, hội đồng xét xử nhận thấy có dấu hiệu xác định hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tình tiết định khung hình phạt: “Làm 6 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên”, nhưng chưa được truy tố.
Vì vậy, hội đồng xét xử đã trả hồ sơ, yêu cầu đối chất giữa ông P., bà T. và bị cáo để làm rõ quan hệ vay mượn, việc giao nhận tiền, thời điểm thế chấp hồ sơ thửa NV23-10. Tòa cũng yêu cầu trưng cầu giám định các hình dấu tròn đỏ, chữ ký trên tài liệu trong các bộ hồ sơ thửa NV23-10, NOTT-01 có do cùng 1 thiết bị in tạo ra trong cùng 1 lần in, photo hay không; chiếc máy photocopy tang vật có thể in phun màu và in laser màu trên cùng 1 văn bản, trong cùng 1 lần in hay không để làm rõ phương thức bị cáo tạo ra các bộ hồ sơ 2 thửa đất này. Tòa cũng yêu cầu làm rõ thời điểm bà T. được bị cáo hoàn trả 1,8 tỷ đồng; lấy lời khai đối chất giữa Hương với bà N.T.V để làm rõ Hương có chuyển toàn bộ tiền chiếm đoạt cho bà V. hay không, nếu có thì cần xác định tư cách tham gia tố tụng của bà V. và xử lý theo quy định. Tòa yêu cầu làm rõ việc xác lập hợp đồng đặt cọc, thỏa thuận hủy hợp đồng và phương thức làm ra hợp đồng đặt cọc lô đất NV05-39; làm rõ các khoản vay cũ – mới, thời điểm thế chấp hồ sơ thửa đất NV23-10, NOTT-01 cho bà L. Đồng thời, xác định số lượng giấy tờ, tài liệu bị cáo đã làm giả và sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đúng quy định.
NGUYỄN VŨ